Trong biến động của đại dịch Covid-19, quyết định rót vốn vào Việt Nam càng được nhiều nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm.
Xu hướng đầu tư của các nhà đầu tư Nhật Bản đã thay đổi từ sau chính sách “Trung Quốc +1” cách đây một thập kỷ. Trong biến động của đại dịch Covid-19, quyết định rót vốn vào Việt Nam càng được nhiều nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm.
Từ cách đây 10 năm, nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đã coi Việt Nam như là thị trường nước ngoài đầu tư đầy triển vọng chỉ sau Trung Quốc. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 bùng phát đã để lại những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế Trung Quốc, khi mà hàng loạt chuỗi cung ứng số 1 thế giới tại quốc gia này bị đứt gãy. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã chọn ASEAN, trong đó có Việt Nam để đầu tư, nơi có hệ thống chính trị an toàn và hệ thống y tế ổn định, cùng hành lang pháp lý thuận lợi.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến giữa tháng 6 năm nay, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 15,67 tỷ đô la Mỹ. Nhật Bản xếp hạng thứ 4 trong số các quốc gia có tổng vốn đăng ký đầu tư vào thị trường Việt Nam. Trong những kịch bản đầu tư vào Việt Nam, việc “săn” các doanh nghiệp trong nước trở thành một bước đi ngắn nhưng hiệu quả. Các nhà đầu tư ngoại lựa chọn các doanh nghiệp tiềm năng để rót vốn hoặc mua lại doanh nghiệp.
Lựa chọn đa dạng hóa bài toán đầu tư là một chiến lược mạo hiểm nhưng tiềm năng, đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh còn nhiều biến động. Việc lựa chọn đầu tư vào các dự án sản xuất có cơ sở khoa học, tại một thị trường “trải thảm” như Việt Nam là một chiến lược khôn ngoan. Khi đó, không chỉ nhà đầu tư hay nhà khoa học có lợi, mà chính khách hàng cũng là những người hưởng lợi đặc biệt từ kết hợp này.
(Nguồn: Báo đầu tư)