Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2021 vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 7/2021 ước tính tăng 1.8% so với tháng trước và tăng 2.2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 2.9%; sản xuất và phân phối điện tăng 6.7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4.4%.
Tính chung 7 tháng năm 2021, IIP ước tính tăng 7.9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với mức tăng 2.6% của cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn mức tăng 9.4% của cùng kỳ năm 2019. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9.9% (cùng kỳ năm 2020 tăng 4.2%), đóng góp 8.1 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8.2%, đóng góp 0.7 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5.6%, đóng góp 0.1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 6.3%, làm giảm 1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số sản xuất 7 tháng năm 2021 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 34.7%; sản xuất xe có động cơ tăng 30.6%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 14.2%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 13.3%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 13%. Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10.4%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 8.6%; khai thác than cứng và than non giảm 2.9%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 1.7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 1.1%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 0.3%.
Chỉ số sản xuất tháng 7/2021 so với cùng kỳ năm trước của 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở phía Nam thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg để phòng chống dịch Covid-19 như sau: 7 địa phương có chỉ số IIP tháng Bảy giảm và 12 địa phương tăng. Cụ thể, Thành phố Hồ Chí Minh giảm 19.4%; Long An giảm 14.6%; Cà Mau giảm 13.7%; Đồng Tháp giảm 5.7%; Trà Vinh giảm 5.3%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 1.9%; Bến Tre giảm 0.2%.
Tuy nhiên, một số địa phương có chỉ số IIP tăng do một số Khu công nghiệp quyết tâm không để đứt gãy chuỗi cung ứng, đảm bảo yêu cầu phòng chống dịch bệnh với phương án 3 tại chỗ nên được phép hoạt động để tiếp tục thực hiện các đơn hàng sản xuất đã ký kết hợp đồng trước đó: (1) Bạc Liêu tăng 13.7% do sản xuất điện tăng 137.6% (bổ sung Nhà máy điện gió Đông Hải 1 hòa lưới điện tháng 2/2021, Nhà máy điện gió Công Lý, Nhà máy điện gió Hòa Bình hòa lưới điện tháng 3/2021); (2) Bình Phước tăng 12.2% do sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 29.5%; (3) Hậu Giang tăng 10.1% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3.3%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 27.2%; sản xuất đồ uống tăng 76.4%; (4) Kiên Giang tăng 8.8% do sản xuất khoáng phi kim loại khác tăng 6.5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 69.5%; sản xuất điện tăng 14%; (5) Cần Thơ tăng 8,1% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 20.2%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 42.7%; sản xuất thuốc lá tăng 3.9%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 30.6%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 52%; (6) Sóc Trăng tăng 7.6% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 3.6%; sản xuất đồ uống tăng 67.4%; (7) An Giang tăng 6% do ngành dệt tăng 20.2%; sản xuất trang phục tăng 0.9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 10.1%; sản xuất khoáng phi kim loại khác tăng 14.6%.
Tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, cơ bản đã khống chế, kiểm soát được dịch bệnh, hoạt động sản xuất trong các khu công nghiệp dần hồi phục. Tốc độ tăng chỉ số IIP các tháng 5, tháng 6 và tháng 7 so với cùng kỳ năm trước của hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh lần lượt là: Bắc Giang tháng 5 giảm 26.7%; tháng 6 giảm 49.8% và tháng 7 giảm 15.3%; Bắc Ninh tăng 23.9%; giảm 8.6% và tăng 1.1%. Thành phố Hà Nội chỉ số IIP tháng 7/2021 tăng 7.8% so với cùng kỳ năm trước do thực hiện giãn cách xã hội từ ngày 24/7/2021.
Chỉ số sản xuất 7 tháng năm 2021 của một số địa phương mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 nhưng vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước như: (1) Bình Dương tăng 7.4% do ngành sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 21.4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 8.3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 19.2%; (2) Cần Thơ tăng 7.2% do ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 82.8%; sản xuất thuốc lá tăng 17.7%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 20.3%; (3) Đồng Nai tăng 7.1% do ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 11.2%; dệt tăng 8.5%; sản xuất thiết bị điện tăng 8,5%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 12.7%; (4) Tiền Giang tăng 3.1% do ngành sản xuất trang phục tăng 47.7%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 15%; sản xuất thiết bị điện tăng 35.2%; (5) Long An tăng 3% do ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 4.8%; sản xuất kim loại tăng 5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7.3%; sản xuất thiết bị điện tăng 12.5%; sản xuất trang phục tăng 7.7%; (6) Thành phố Hồ Chí Minh tăng 2.3% do ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 5.7%; dệt tăng 4.9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 7.3%; sản xuất thiết bị điện tăng 20.7%; (7) Đồng Tháp tăng 2.1% do ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 2.2%; sản xuất trang phục tăng 32.8%...
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 7 tháng năm 2021 tăng so cao với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 55.9%; linh kiện điện thoại tăng 40%; ô tô tăng 39.6%; giày, dép da tăng 19.3%; sắt, thép thô tăng 16.2%; phân hỗn hợp NPK tăng 15.4%; điện thoại di động tăng 14.1%; sữa bột tăng 14%; vải dệt từ sợi nhân tạo và sợi tự nhiên cùng tăng 10.6%; thức ăn cho gia súc tăng 10%; quần áo mặc thường tăng 9.5%. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 13.4%; tivi các loại giảm 10.3%; đường kính giảm 9.5%; phân u rê giảm 7.4%; dầu mỏ thô khai thác giảm 6.8%; bột ngọt giảm 5.1%; than sạch giảm 2.8%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/7/2021 không thay đổi so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 0.4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0.2% và giảm 2.7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 0.4% và giảm 0.8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng tăng 0.2% so với cả hai thời điểm. Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0.1% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 0.4% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo không đổi và giảm 0.4%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí giảm 0.1% và giảm 0.2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0.2% và giảm 1.3%.
Nguồn: vietstock