
Điểm sáng kinh tế và vai trò “đầu kéo” của khu vực FDI
Không phải chỉ mỗi năm nay, khi thu hút FDI 9 tháng đạt trên 28,54 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước; vốn giải ngân đạt kỷ lục trong vòng 5 năm qua, với 18,8 tỷ USD, mà trong cả giai đoạn 2021-2025, thu hút FDI đã luôn là điểm sáng của nền kinh tế.
Điều này đã được nhấn mạnh trong báo cáo mà Chính phủ trình Quốc hội về tình hình thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Theo báo cáo, tổng vốn FDI đăng ký giai đoạn này đạt 185 tỷ USD, cao hơn giai đoạn 2016-2020 (170 tỷ USD).
Nhưng điều quan trọng, chất lượng dòng vốn FDI tiếp tục được cải thiện, thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược, dự án FDI quy mô lớn trong các lĩnh vực điện tử bán dẫn, trí tuệ nhân tạo… Thêm vào đó, liên kết giữa khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn nước ngoài cũng đã được tăng cường.
Hàng loạt dự án được nhắc đến, như dự án trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) của NVIDIA, Qualcomm, SAP; hay dự án của SYKE (Thụy Điển), LEGO (Đan Mạch)… Chưa kể, còn các khoản đầu tư tỷ USD của Samsung, LG, Foxconn, Goertek, Luxshare…
Chính những nỗ lực trong xây dựng các chính sách khuyến khích, ưu đãi mang tính cạnh tranh quốc tế đối với các dự án lớn, quan trọng, bao gồm cả các dự án trong các lĩnh vực R&D, đổi mới sáng tạo…, đã góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư toàn cầu.
Báo cáo về kinh tế Việt Nam do HSBC vừa công bố cũng nhắc đến điều này. Theo các chuyên gia của HSBC, sau những quan ngại về những tác động của chính sách thuế quan, dòng FDI vào Việt Nam vẫn tăng mạnh so với cùng kỳ. Điểm đặc biệt mà HSBC nhắc đến chính là các khoản đầu tư của Trung Quốc và Mỹ vào Việt Nam vẫn đang gia tăng. “Bất chấp những biến động thương mại, hai nền kinh tế lớn nhất thế giới vẫn tiếp tục rót vốn đầu tư vào Việt Nam”, HSBC nhận xét.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội khi thẩm tra báo cáo của Chính phủ đã có đánh giá tích cực về thu hút FDI của Việt Nam. Theo đó, việc vốn FDI đăng ký đạt 185 tỷ USD, vượt giai đoạn 2016 - 2020 và tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo…, phản ánh sức hấp dẫn ngày càng lớn của Việt Nam đối với các tập đoàn chiến lược.
“Những kết quả này không chỉ mang tính định lượng, mà còn tạo ra sự thay đổi về chất, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, mạng lưới R&D của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới hiện diện tại Việt Nam, cùng sự phát triển đội ngũ trí thức và chuyên gia công nghệ cao, mở ra triển vọng để Việt Nam từng bước làm chủ công nghệ lõi, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu”, ông Phan Văn Mãi, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội nhấn mạnh.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội cũng khẳng định vai trò “đầu kéo” của khu vực FDI trong thương mại hàng hóa, khi tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp FDI tăng từ 71,7% trong quý I lên 79,1% quý III/2025; tỷ trọng nhập khẩu tăng tương ứng từ 63,1% lên 72,5%.
Gia tăng kết nối nội - ngoại để nâng chất dòng FDI
Dù vai trò “đầu kéo” của khu vực FDI là tích cực, song một cách thẳng thắn, Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội vẫn bày tỏ sự lo lắng khi nền kinh tế vẫn đang lệ thuộc lớn vào khu vực này.
“Sự lệ thuộc kép vào FDI trong xuất khẩu và nhập khẩu đầu vào đang là điểm nghẽn lớn đối với tính bền vững thương mại và khả năng tự chủ của nền kinh tế. Điều này cần được đặc biệt quan tâm trong điều hành thời gian tới”, Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội bày tỏ và cho rằng, sự phụ thuộc này sẽ khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước các biến động của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chính những nỗ lực trong xây dựng các chính sách khuyến khích, ưu đãi mang tính cạnh tranh quốc tế đối với các Dự án lớn, quan trọng, bao gồm cả các Dự án trong các lĩnh vực R&D, đổi mới sáng tạo…, đã góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư toàn cầu.
Chưa kể, một điểm yếu khác, đó là mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn yếu, chưa hình thành được hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ có năng lực cạnh tranh quốc tế...
Theo báo cáo của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2024, tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu của các ngành sản xuất chiến lược của Việt Nam nhìn chung ở mặt bằng khá thấp so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.
Đơn cử, trong ngành điện - điện tử, ngành xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam, hàm lượng giá trị gia tăng nội địa chỉ ở mức 26,9%, thấp hơn đáng kể so với Thái Lan (52,2%), Indonesia (61,2%), Ấn Độ (66%), Trung Quốc (75,3%) và Hàn Quốc (68,8%).
Thảo luận tại Quốc hội, nhiều đại biểu cũng đề cập vấn đề này. “Cần chuyển từ thu hút bằng số lượng sang chất lượng. Hiện tại, theo số liệu thống kê, hơn 70% kim ngạch xuất khẩu thuộc khu vực FDI, nhưng giá trị gia tăng nội địa chưa đạt kỳ vọng. Do vậy, cần có chính sách chọn lọc, ưu tiên dự án có cam kết chuyển giao công nghệ, sử dụng nhân lực Việt Nam và liên kết với doanh nghiệp nội địa”, đại biểu Nguyễn Đại Thắng (Hưng Yên) nói.
Trong khi đó, đại biểu Lã Thanh Tân (Hải Phòng) cho rằng, cần xây dựng các chương trình liên kết chuỗi cung ứng giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa, đặc biệt trong các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế tạo công nghệ cao.
“Cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam”, ông Nguyễn Đại Thắng nói và cho rằng, cần có chính sách ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp FDI có cam kết chuyển giao công nghệ, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam.
Cùng với đó, theo ông Nguyễn Đại Thắng, cần có cơ chế để xây dựng hệ sinh thái liên kết ba nhà doanh nghiệp tư nhân - Nhà nước - doanh nghiệp FDI, để doanh nghiệp “không bơi một mình” mà “bơi theo đàn”, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, tăng nội địa hóa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, tăng sức cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Có chung quan điểm, đại biểu Nguyễn Như So (Bắc Ninh) cho rằng, trong bối cảnh thu hút FDI hiện nay, cần có các quy định rõ về cam kết nội địa hóa, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam.
“FDI phải là chất xúc tác cho năng lực sản xuất trong nước, nâng cao giá trị ‘made in Việt Nam’, giúp doanh nghiệp Việt Nam vươn lên làm chủ các khâu giá trị trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây chính là nền tảng cho một nền kinh tế tự chủ, bền vững”, ông Nguyễn Như So nhấn mạnh.